|  Sáng 11/6, Bộ GD&ĐT tổ chức tọa đàm xin ý kiến về sửa đổi khung cơ 
cấu hệ thống giáo dục quốc dân và khung trình độ quốc gia Việt Nam. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn phát biểu tại tọa đàm   Tổ chức theo hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến, tọa đàm do Thứ 
trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn chủ trì. Cùng tham dự có lãnh đạo các
 đơn vị thuộc Bộ GD&ĐT; các chuyên gia, đại diện Bộ Y tế; Bộ Ngoại 
giao; Bộ Tư pháp; Bộ Tài chính; Bộ Công thương; Bộ Lao động, Thương binh
 và Xã hội; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Văn phòng Chính phủ; Hiệp 
hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam; sở GD&ĐT và trường đại 
học một số địa phương.   Cấp thiết phải sửa đổi Phát biểu khai mạc tọa đàm, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho 
biết: Năm 2016, Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình 
độ quốc gia Việt Nam (VQF) được Thủ tướng Chính phủ ban hành (Quyết định
 số 1981/QĐ-TTg, 1982/QĐ-TTg). Sau đó, Quốc hội ban hành Luật Giáo dục 
2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học năm 
2018 và có một số điểm, một số nội dung chưa hoàn toàn nhất quán giữa 2 
Quyết định với điều khoản của Luật.   Bên cạnh đó, thực tiễn 8 năm triển khai khung cơ cấu hệ thống giáo dục 
quốc dân và khung trình độ quốc gia Việt Nam cho thấy có một số điểm còn
 bất cập liên quan đến liên thông, phân luồng trong giáo dục, đối sánh 
với khung trình độ của các nước, đặc biệt các tiêu chuẩn do Unesco ban 
hành; những vướng mắc đặt ra trong công nhận trình độ, công nhận văn 
bằng, công nhận trình độ để học sinh đi học nước ngoài...   Luật Giáo dục quy định, Thủ tướng ban hành Khung trình độ quốc gia, 
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, quy định thời gian đào tạo, 
cũng như khối lượng kiến thức tối thiểu. Theo Thứ trưởng, đây là cơ hội 
chúng ta rà soát lại, đánh giá từ thực tiễn, từ các văn bản quy phạm 
pháp luật (nhất là trong quy định của Luật), xem những gì còn bất cập 
cần sửa đổi cho phù hợp. Đồng thời, việc sửa đổi cũng làm sao bảo đảm 
tính liên thông trong hệ thống; cũng như tương thích với các chuẩn khu 
vực và thế giới. Bà Nguyễn Thị Thu Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học phát biểu tại tọa đàm Chia sẻ cụ thể về lý do, sự cần thiết phải sửa đổi Khung cơ cấu hệ 
thống giáo dục quốc dân, Khung trình độ quốc gia Việt Nam, bà Nguyễn Thị
 Thu Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học cho biết: Quyết định số 1981/QĐ-TTg phê duyệt Khung cơ cấu hệ thống giáo dục 
quốc dân đang quy định về tiêu chuẩn đầu vào, thời gian học tập và cơ 
hội học tập tiếp tục của các cấp học và trình độ đào tạo thuộc giáo dục 
chính quy và giáo dục thường xuyên trong hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, một số thành tố trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc 
dân hiện nay thiếu tính hội nhập, thiếu tính thống nhất, thiếu tính liên
 thông và chưa hỗ trợ được tốt cho việc phân luồng giáo dục sau THCS. Cụ
 thể là: Tính hội nhập thiếu vì cao đẳng không thuộc giáo dục đại học; các 
trình độ sơ cấp, trung cấp trong “bậc” giáo dục nghề nghiệp chưa có sự 
tương thích trong tiêu chuẩn quốc tế UNESCO (ISCED). Tính thống nhất thiếu vì trình độ sơ cấp, trung cấp được thiết kế 
theo tiêu chí tay nghề (không cần trình độ học vấn đầu vào) trong khi 
trình độ cao đẳng được thiết kế cần trình độ học vấn đầu vào. Điều này 
chưa nhất quán theo nguyên tắc thiết kế các trình độ trong hệ thống giáo
 dục như ISCED. Tính liên thông thiếu vì các chương trình đào tạo của giáo dục nghề 
nghiệp và giáo dục đại học hiện nay chưa có tính liên thông. Bản thân 
các trình độ trong giáo dục nghề nghiệp cũng chưa đảm bảo tính liên 
thông, vì các trình độ sơ cấp, trung cấp chưa được thiết kế tiêu chí đầu
 vào giống như trình độ cao đẳng và 2 trình độ này chưa tương ứng với 
bậc nào trong ISCED nên chưa thấy con đường học vấn liên thông trong 
“bậc” giáo dục nghề nghiệp cũng như với các trình độ của giáo dục đại 
học. Tính phân luồng còn khó khăn vì theo hệ thống hiện nay, học sinh sau 
THCS đều hướng vào THPT và học sinh sau THPT đều hướng vào đại học. Thực
 tế hiện nay, để vào cao đẳng, học sinh cần vừa có bằng trung cấp và 
THPT, nên việc học theo hướng đào tạo nghề trình độ trung cấp không thu 
hút được người học. Đại diện cơ sở giáo dục, chuyên gia phát biểu tại tọa đàm Về Khung trình độ quốc gia Việt Nam (VQF) bao gồm 8 cấp độ, từ Cấp 1 
(sơ cấp) đến Cấp 8 (tiến sĩ). Mỗi cấp độ được xác định bằng các mô tả 
phác thảo kết quả học tập, kiến thức, kỹ năng và mức độ tự chủ và trách 
nhiệm. Tuy nhiên, các chuẩn đầu ra được mô tả trong các cấp độ này chưa 
hoàn toàn chính xác về phát biểu khi đối chiếu giữa các trình độ với 
nhau, được diễn đạt chưa nhất quán, và ảnh hưởng tới tham chiếu với 
chuẩn đầu ra của Khung trình độ quốc gia các nước trong ASEAN. Bên cạnh đó, thiết kế Khung trình độ quốc gia Việt Nam cần phù hợp 
với các khung và tiêu chuẩn trình độ quốc tế nhằm tạo điều kiện công 
nhận bằng cấp và hỗ trợ khả năng di chuyển quốc tế cho sinh viên, người 
lao động; cần đảm bảo áp dụng nhất quán trong các lĩnh vực GD-ĐT khác 
nhau, và đảm bảo sự tham gia các bên liên quan trong thúc đẩy các cơ chế
 bảo đảm chất lượng hiệu quả. Các cơ sở giáo dục đại học đều thực hiện tham chiếu VQF khi xây dựng 
các chuẩn đầu ra cho các chương trình đào tạo, nhưng còn thiếu kết nối 
với đáp ứng kỹ năng làm việc từ thị trường lao động. Các điều kiện bảo 
đảm chất lượng cũng cần rà soát, chuẩn hóa, và quản lý, giám sát chặt 
chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giúp công nhận các trình 
độ đào tạo với các nước trong ASEAN. Chỉnh sửa bảo đảm hội nhập, liên thông, thống nhất Từ những hạn chế, bất cập nêu trên, Ban soạn thảo đề xuất chỉnh sửa 
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đảm bảo hội nhập 
(chuyển cao đẳng về giáo dục đại học), đảm bảo tính liên thông, thống 
nhất, hỗ trợ phân luồng sau THCS. Tất cả các trình độ ở các bậc/cấp độ 
của hệ thống giáo dục quốc dân cần được thiết kế gồm 3 tiêu chí: Định 
hướng của chương trình; mức độ hoàn thành cấp độ; khả năng được chuyển 
tiếp lên cấp độ cao hơn. Với khung trình độ quốc gia Việt Nam, Ban soạn thảo đề xuất phân 
loại, chuẩn hóa năng lực, khối lượng học tập tối thiểu và văn bằng, 
chứng chỉ phù hợp với các trình độ của hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng 
thời, thiết lập cơ chế kết nối hiệu quả giữa yêu cầu về chất lượng nguồn
 nhân lực của bên sử dụng lao động với hệ thống các trình độ đào tạo. 
Làm cơ sở để xây dựng chuẩn chương trình đào tạo, xây dựng chính sách 
bảo đảm chất lượng và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nguồn nhân 
lực. Tạo cơ chế liên thông giữa các trình độ đào tạo, xây dựng xã hội 
học tập và học tập suốt đời. Cùng với đó, thiết lập mối quan hệ với tham chiếu khung trình độ quốc
 gia (NQFs) của các nước ASEAN thông qua các khung tham chiếu trình độ 
khu vực và quốc tế làm cơ sở thực hiện công nhận lẫn nhau về trình độ. Tại tọa đàm, các đại biểu cùng chia sẻ về những vấn đề còn vướng mắc;
 đồng thời trao đổi, góp ý, đề xuất những nội dung cần chỉnh sửa trong 
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt 
Nam. Trong đó vấn đề được nhiều ý kiến tập trung liên quan đến việc bảo 
đảm tính liên thông, thống nhất, hội nhập; về đào tạo đặc thù, công nhận
 tương đương,.. Cảm ơn ý kiến, đóng góp của các chuyên gia, đại biểu tham dự buổi tọa
 đàm, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh: Đây là một việc làm khó và 
phức tạp, đòi hỏi sự thống nhất cao của các bên liên quan; cần có bước 
đi ngắn hạn cũng như dài hạn để khắc phục những bất cập và hoàn thiện 
diện mạo mới của Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, Khung trình độ
 quốc gia Việt Nam. Thứ trưởng yêu cầu Ban soạn thảo tiếp thu nghiêm túc
 các ý kiến góp ý để trước mắt hoàn thành báo cáo đánh giá, từ đó xây 
dựng các dự thảo một cách chất lượng. #Nguồn tin: Báo Giáo dục và Thời đại |